Tự chủ trong quản lý giáo dục đại học trong năm 2019

Đại học theo mô hình doanh nghiệp không chỉ đào tạo thực tiễn, giàu tính ứng dụng và "kích thích" tinh thần sáng tạo, mà còn là giải pháp phát triển kỹ năng mềm một cách toàn diện cho sinh viên.
GS.TS Đinh Xuân Khoa, Hiệu trưởng trường ĐH Vinh cho rằng, hiện nay các trường đại học thực sự đang phải đối mặt với những thách thức và khó khăn đối với các mô hình quản trị đại học truyền thống có từ lâu đời, nhà nước gần như bảo trợ toàn bộ mọi hoạt động cũng như chi phí cho các trường đại học.

Ở Việt Nam, chi phí phục vụ cho giáo dục đại học tiếp tục tăng nhưng nguồn thu từ ngân sách và người học càng ngày càng giảm. Do đó, các trường Đại học cần được quyền chủ động và linh hoạt trong việc thu hút các nguồn tài chính và phát huy mọi tiềm năng của nhà trường.


Tự chủ là giải pháp căn cơ phát triển giáo dục đại học

GS.TS Đinh Xuân Khoa cho biết, việc thực hiện tự chủ đại học sẽ là giải pháp căn cơ để phát triển giáo dục đại học Việt Nam theo hướng bền vững và hội nhập.

Theo đó, tự chủ đại học hoàn toàn không có nghĩa là các trường đại học nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Nhiều quốc gia trên thế giới có xu hướng mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học và mở rộng các lĩnh vực được tự chủ,cùng với đó là việc đòi hỏi trường đại học phải tự chịu trách nhiệm về các mặt hoạt động của họ.

Trường đại học thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp; trước pháp luật; trước cộng đồng xã hội; và với chính nhà trường về các mặt liên quan đến phạm vi được trao quyền tự chủ.

Mức độ tự chủ càng lớn thì trường đại học phải tự chịu trách nhiệm càng cao, điều đó có nghĩa là chất lượng mọi mặt hoạt động của trường đại học phải được cải tiến một cách tuyến tính so với mức độ tự chủ được trao.

Chủ trương giao tự chủ cho các trường cũng là một giải pháp quy hoạch mạng lưới một cách tự nhiên. Trong mạng lưới, mỗi trường vẫn phải chủ động nghiên cứu thị trường, vì mỗi trường có phân khúc riêng, từ đó, có những điều chỉnh về nội dung, giáo trình, ngành nghề đào tạo cho phù hợp.

Khi tự chủ, các trường chủ động kiểm soát được các hoạt động và sẽ phát triển tốt, nếu các trường không tìm kiếm được nguồn tuyển sinh, yếu kém trong quản lý sẽ phải tự giải thể.Trong quy hoạch lại mạng lưới, nếu các trường không tự chủ thì Nhà nước không thể cóđủ nguồn tài chính đầu tư lâu dài cho bộ máy quá lớn như hiện nay.



Thay đổi phương thức quản lý nhà nước và quản trị đại học

GS.TS Đinh Xuân Khoa phân tích, từ việc xác định tự chủ đại học dẫn đến cần phải thay đổi phương thức quản trị đại học. Nói đến tự chủ là nói đến mối quan hệ giữa Nhà nước và cơ sở giáo dục đại học, tự chủ cao đồng nghĩa với mức độ can thiệp thấp của Nhà nước vào các công việc của cơ sở giáo dục đại học.

Trên thực tế, các trường đại học Việt Nam có mức độ tự chủ thấp, một trong những nguyên nhân chính là sự can thiệp sâu của Nhà nước đối với giáo dục đại học: phân bổ ngân sách; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; quyết định mở/đóng ngành đào tạo; khung chương trình hay mức học phí và tổ chức nhân sự.

Theo đó, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xây dựng chính sách, hành lang pháp lý và trên hết là không làm thay và can thiệp vào công việc nội bộ của các trường, cần củng cố và xác lập vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc đầu tư và hỗ trợ cho các trường, trên cơ sở trao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội/giải trình cho các trường.Theo đó, nhà nước có vai trò giám sát.

Về mối quan hệ giữa ba thiết chế quản trị trường đại học tự chủ, nên vận dụng các nguyên tắc đã được áp dụng khi giải quyết các mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương, Quốc hội và Chính phủ ở tầm quốc gia. Ở đây cần có sự tin tưởng lẫn nhau giữa bộ phận lãnh đạo, quản trị và bộ máy điều hành, quản lý. Khi các bên hiểu rõ trách nhiệm của mình, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau thì quan hệ giữa các bên sẽ tốt đẹp và được tối ưu hóa, sức mạnh của các thiết chế này sẽ được cộng hưởng thành sức mạnh tổng hợp, mạnh mẽ và hiệu quả hơn rất nhiều so với từng thiết chế riêng rẽ.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến